MUA BÁN ĐẤT CÓ CẦN CẢ HAI VỢ CHỒNG CÙNG KÝ KẾT KHÔNG

MUA BÁN ĐẤT CÓ CẦN CẢ HAI VỢ CHỒNG KÝ KẾT KHÔNG?

Hiện nay có nhiều người thắc mắc liệu việc mua bán đất có cần cả hai vợ chồng cùng ký kết hay không.? Vấn đề này mặc dù không có quy định nào trực tiếp bắt buộc việc mua bán đất phải có sự tham gia của hai vợ chồng. Tuy nhiên Bộ luật dân sự 2015, Luật đất đai 2013 và Luật hôn nhân gia đình 2014 cũng đã có những quy định về định đoạt tài sản chung của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể như sau:

Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình quy định tài sản chung của vợ chồng gồm có:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Như vậy có thể thấy quyền sử dụng đất hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của cả hai vợ chồng. Đối với tài sản này theo quy định của Luật đất đai 2013 thì khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất phải ghi rõ thông tin của cả hai vợ chồng.

Để định đoạt, mua bán tài sản chung là quyền sử dụng đất vợ, chồng phải tuân theo những nguyên tắc đã được quy định trong BLDS 2015 và Luật hôn nhân và gia đình.

Điều 218 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc định đoạt tài sản chung như sau:

“1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình.

2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.”

Điều 35 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.

2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:

a) Bất động sản;

b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;

c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.

Như vậy đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì đương nhiên việc chuyển nhượng phải có sự tham gia của hai vợ chồng hoặc một trong các bên có văn bản ủy quyền định đoạt cho bên còn lại tham gia giao dịch. Còn đối với trường hợp vợ chồng mua nhà đất thì việc định đoạt tài sản ở đây không phải là quyền sử dụng đất mà là khoản tiền của hai vợ chồng.

Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ hoặc chồng chỉ được tự mình tham gia các giao dịch để phục vụ nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt của gia đình như về ăn mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh nên đối với việc mua bán nhà đất có giá trị lớn thì về nguyên tắc phải có sự đồng ý hoặc thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng.

Có thể thấy đối với trường hợp bán nhà đất thì đã rõ còn quy định trực tiếp bắt buộc việc đi mua nhà đất phải có cả hai vợ chồng thì chưa nên mới có chuyện một bên vợ hoặc chồng đi mua căn hộ chung cư thì chủ đầu tư vẫn đồng ý giao kết hợp đồng còn nếu ra công chứng thì Công chứng viên sẽ yêu cầu có cả hai vợ chồng hoặc có giấy chứng nhận tình trạng độc thân.

Tuy nhiên nếu một khi một bên vợ hoặc chồng muốn một mình đi mua nhà đất và đứng tên riêng trên sổ đỏ thì vẫn có để thực hiện nhưng cần cẩn trọng để đảm bảo giá trị pháp lý trong giao dịch của mình.

Để được Luật sư tư vấn trực tiếp, vui lòng liên hệ:   0969449828 (Zalo)

Email: Luatsutoandan@gmail.com