CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC MIỄN TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ?

CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC MIỄN TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ?

CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC MIỄN TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ?

Trên thực tế xét xử, có những hành vi dẫn tới chết người hay gây hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bởi vì, nếu thuộc các trường hợp sau đây thì người thực hiện các hành vi đó sẽ được loại trừ trách nhiệm hình sự. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, sự kiện bất ngờ. Điều 20 BLHS quy định về sự kiện bất ngờ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định này, thì bản chất của sự kiện bất ngờ là trường hợp là người thực hiện hành vi không có lỗi, họ không có sự lựa chọn khi thực hiện hành vi gây thiệt hại, cũng như họ không thể thấy trước được hậu quả do hoàn cảnh khách quan, đồng thời họ không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả đó. Đây chính là điểm để phân biệt với các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự khác được BLHS quy định như sự kiện bất khả kháng,…

Thứ hai,tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều 21 BLHS năm 2015 quy định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại điều luật này, thì tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự có thể hiểu là trường hợp người người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Để xác định việc mất khả năng nhận thức hành vi hoặc mất khả năng điều khiển hành vi nguy hiểm cho xã hội phải có kết luận giám định và hậu quả cũng như tính chất của hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Thứ ba,phòng vệ chính đáng. Điều 22 BLHS năm 2015 quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Theo đó, một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi thoả mãn đồng thời hai dấu hiệu: một là có hành vi tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tổ chức, quyền và lợi ích chính đánh của người phòng vệ hoặc của người khác”, hai là hành vi phòng vệ gây thiệt hại cho người xâm phạm là cần thiết việc quy định hai dấu hiệu này để xác định giới hạn của phòng vệ chính đáng bởi tại khoản 2 của điều luật quy định “Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này”. Tuy nhiên, nếu người thực hiện hành vi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng sẽ là tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 BLHS.

Thứ tư,tình thế cấp thiết. Điều 23 BLHS năm 2015 quy định: tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn hoặc thiệt hại cần ngăn ngừa. Theo đó, để được xem là tình thế cấp thiết cần phải có đầy đủ ba dấu hiệu: một là, phải có sự đe dọa hiện hữu và thực tế xâm phạm đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ, hai là hành vi gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm, ba là thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Tương tự phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết xác định ba dấu hiệu để nhận biết trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết theo khoản 2 điều luật này thì sẽ chịu trách nhiệm hình sự, cũng như được xem xét sẽ là tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 BLHS.

Thứ năm, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội. Điều 24 BLHS năm 2015 quy định là hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ. Theo điều luật, để được coi là gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, phải thỏa mãn các ba dấu hiệu: một là, hành vi bắt giữ phải thuộc về các chủ thể có thẩm quyền bắt giữ người phạm tội, hai là, hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là biện pháp cuối cùng, không còn cách nào khác để bắt giữ người phạm tội; ba là, hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là cần thiết. Tuy nhiên, tại khoản 2 cũng quy định tình trạng vượt quá mức cần thiết và tình tiết giảm nhẹ được áp dụng tại Điều 51 BLHS.

Thứ sáu,rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Điều 25 BLHS năm 2015 quy định: hành vi của một người đã gây thiệt hại khi tiến hành, thực hiện việc nghiên cứu, thủ nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa cũng như quy định về không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.. Các điều kiện để được loại trừ trách nhiệm hình sự theo Điều 25 này gồm có ba điều kiện: một là, hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải nhằm mục đích đem lại lợi ích cho xã hội, hai là lĩnh vực của hành vi gây thiệt hại chỉ giới hạn trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ, ba là người gây ra thiệt hại đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa.

Thứ bảy,thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên. Điều 26 BLHS năm 2015 quy định: hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó. Các điều kiện để được coi là gồm có bốn điều kiện sau: một là, mệnh lệnh mà người có hành vi gây thiệt hại thi hành phải là mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, hai là mục đích của việc thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên thuộc lực lượng vũ trang phải nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, ba là người có hành vi gây thiệt hại đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, bốn là việc thi hành mệnh lệnh này không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 - Điều 421, khoản 2 - Điều 422, khoản 2 - Điều 423 BLHS. Có một điểm khác biệt ở trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự ở đây, là người thực hiện hành vi gây thiệt hại này sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên, đối với người ra mệnh lệnh nói trên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Trên đây là 7 trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự của BLHS năm 2015. Việc quy định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, đã thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

ĐOÀN LUẬT SƯ TP HÀ NỘI - CÔNG TY LUẬT HÙNG BÁCH

Hotline:  0983.449.828 (Zalo)

Email: Luatsutoandan@gmail.com