THỜI HẠN TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ?

THỜI HẠN TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ? 

THỜI HẠN TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ?

Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự thì không truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tính từ ngày tội phạm được thực hiện đã qua những thời hạn sau đây: 

- Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt  đối với tội ấy là đến ba năm tù (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Ví dụ: Tội giết con mới đẻ (Điều 94); tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 95; tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; tội ở lại nước ngoài hoặc ở Việt Nam trái phép (Điều 274)...

- Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng; 

Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt  đối với tội ấy là đến bảy năm tù (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Ví dụ: Tội lây truyền HIV cho người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 117; tội cưỡng dâm thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 113.v.v..

- Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng; 

Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Ví dụ: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 156; tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 154.v.v...

- Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Ví dụ: Tội phản bội tổ quốc thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 78; tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 79; tội giết người thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 93; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 194; tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 221

Việc xác định tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. nghiêm trọng hay tội phạm ít nghiêm trọng nói chung không khó, chỉ việc căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là xác định được tội phạm đó là tội phạm nghiêm trọng hay tội phạm ít nghiêm trọng. 

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện.Ví dụ: Vào ngày 1/1/2018,  A trộm một chiếc xe máy trị giá 10 triệu đồng của B rồi bỏ trốn đi nơi khác. Vậy sau 5 năm, tức sau ngày 1/1/2023 thì dù cơ quan điều tra có phát hiện, xác định hành vi của A là hành vi phạm tội thuộc khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự 2015 là tội ít nghiêm trọng thì cũng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tất yếu, A không phải chịu bất cứ hình phạt nào. 

Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của không hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù thì thời gian đã qua không được tính vào thời hiệu đối với tội cũ mà được tính lại kể từ ngày phạm tội mới. Ví dụ: ngày 1-1-2018 A phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự nhưng chưa bị khởi tố điều tra, đến ngày 10-10-2018 H lại phạm tội cướp tài sản. Như vậy, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trộm cắp tài sản lại được tính từ ngày 10-10-2018 chứ không phải từ ngày 1-1-2018. Vì vậy, A chỉ được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự với tội trộm cắp tài sản sau ngày 10/10/2023 chứ không phải ngày 1/1/2018. 

Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã thì thời gian trốn tránh không được tính; thời hiệu tính lại kể tử khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ. Ví dụ: 1/1/2018 A phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự, sau khi phạm tội B bỏ trốn, cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã nhưng vẫn không bắt được. Nếu tính thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự thì sau ngày 1/1/2023, dù cơ quan điều tra có bắt được A thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cũng đã hết. Tuy nhiên, trong thời hạn đó, do A đã bỏ trốn và có lệnh truy nã, nên thời gian bỏ trốn của B không được tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tóm lại, điều này có nghĩa rằng, trên thực tế khi một người phạm tội mà đã có lệnh truy nã thì gần như việc đợi hết thời hạn để không bị truy cứu trách nhiệm hình sự là khó có thể. 

ĐOÀN LUẬT SƯ TP HÀ NỘI - CÔNG TY LUẬT HÙNG BÁCH

Hotline: 0983.449.828 (Zalo)

Email: Luatsutoandan@gmail.com